Đào Tấn vốn “sinh trưởng trong một gia đình theo đạo Phật. Bà Hà Thị Loan - mẹ cụ - là một Phật tử thuần thành, phụng Phật tại nhà” [1, 124]. Năm 1883, thất vọng trước sự ra đi của một ông vua mộ tuồng, đối mặt với cục diện chính trị đảo điên, lại chưa tin tưởng vào sự thắng lợi của phong trào Cần Vương, Đào Tấn đã từ quan và tìm đến Linh Phong Tự nơi quê nhà như một quy luật tất yếu. Trong thời gian treo ấn từ quan về nhà (1883 – 1885), lấy đạo hiệu Tiểu Linh Phong Mai Tăng, Đào công có gần một năm tự tu, theo kiểu không đầu sư mà học Thiền từ nguồn Kinh sách phong phú. Tác giả khẳng định: “Giữa niên hiệu Kiến Phúc – Hàm Nghi, Tấn tôi bỏ quan về nhà ở phía nam Kinh đô, gởi thân nơi cửa Thiền để tránh loạn, kiệu chàm gậy trúc từng qua lại núi này, chùa này. Người xưa một năm ở núi quá nửa, Tấn tôi lúc bấy giờ cũng tương tự như thế” [1, 53]. Mặc dù, ban đầu, mục đích lên chùa của Đào công chỉ là để né tránh phong trào Cần Vương ở Bình Định. Song trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, con người cũng như tâm hồn tác giả đã thực sự hòa nhập vào đời sống tu hành và giác ngộ, tiếp cận được những điều vi diệu trong tư tưởng, triết lý nhà Phật. Ngay cả giai đoạn sau này, khi xuống núi trở lại làm làm quan, tâm hồn ông cũng luôn hướng về Linh Phong tự, về đời sống Phật giáo với bao xúc cảm, rung động Thiền. Biểu hiện trong sáng tác thơ của tác giả là con người Thiền nhân, với một cái tâm, dù ở đâu, khi nào, cũng luôn hướng đến cõi Thiền.
Trước hết, ta hãy nhìn nhận Thiền nhân tác giả qua đời sống tu hành. Tu hành là phương pháp giúp con người đạt tới chỗ đắc đạo nhằm thoát khỏi tình trạng vô minh, vượt qua bể khổ, luân hồi, nghiệp chướng để được về với cõi Niết Bàn vô sinh, vô diệt. Trong thơ Đào Tấn, đời sống tu hành của tác giả không được hé lộ một cách đầy đủ mà chỉ phảng phất. Ta không bắt gặp trong thơ ông một con người suốt ngày ngồi Thiền, tụng kinh niệm phật. Ở Đào Tấn, ta lại bắt gặp một tu sĩ phóng khoáng, vừa như tuân thủ lại vừa như phá bỏ những giới luật nhà Phật. Một mặt, ông khẳng định khả năng học Thiền già dặn của mình; mặt khác, lại là một túy nhân với những biểu hiện đời thường, thế tục như nó vốn có:
Nam quốc Mai Tăng lão học Thiền
Đạm tương tố phỉ tác xuân diên
Túy đồi lạc hạ liên hoa mạo
Bối hậu quần cơ tiếu dục điên.
(Sãi Mai nước Nam học Thiền già dặn
Dưa suông tương nhạt đặt làm tiệc xuân
Say chệnh choạng làm rơi chiếc mũ cánh sen
Các cô gái nấp sau lưng cười rũ rượi).
Tặng Mai Tăng
Hai câu thơ sau gần như đối lập với hai câu thơ trước. Người đọc dễ nhầm tưởng đó là bức tranh biếm họa về đời sống tu hành của Mai Tăng. Nhưng không, cần phải hiểu rằng, Đào Tấn không tu hành theo lối khổ hạnh, mà chịu ảnh hưởng lối tu Nam tông của Huệ Năng (638 – 713). Với Huệ Năng, Thiền tông đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm khách quan sang chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Thiền phái này quan niệm rằng, muôn vật, mọi điều, kể cả Phật tính đều có ở trong mỗi người. Vì vậy, muốn thành Phật, chúng ta chẳng phải tụng niệm kinh kệ, chăm chăm trì giới mà chỉ cần gạt bỏ vọng niệm. “Cách tu hành giới luật nghiêm ngặt tầm chương trích điển khổ hạnh đã nhường chỗ cho đời sống tự nhiên đầy sinh thú, đói thì ăn, buồn ngủ thì nằm ngủ, tùy duyên, tùy ngộ, thuận ứng nhẹ nhàng, làm cho con người được khoan khoái” [3, 135]. Trong thực tế, hình ảnh tu sĩ cũng rượu thịt, ta đã bắt gặp ở Thiền sư Thiện Chiêu hay Tuệ Trung Thượng sĩ. Và trong thơ Thiền Lý – Trần cũng không thiếu những cảnh huống tương tự như: “Ngư ông say ngủ không ai gọi” (Không Lộ - Ngư nhàn), “Để kệ cho sư vui đến sáng” (Trần Thái Tông – Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong), “Mở mắt mà như say choáng váng” (Huyền Quang – Ngọ Thụy)... Bản thân Thiền nhân Đào Tấn cũng đã thừa nhận về sự “phá giới” của mình sau những cơn say:
Kim nhật hứng lai câu phá giới
Hoàng hoa ly lạc túy tây phong.
(Hôm nay hứng đến phá bỏ hết các giới luật
Hoa cúc bên rào rơi ngã vì say gió tây).
Túy hậu
Như vậy, cái “lão học thiền” của Mai Tăng đã thể hiện ngay ở cách tu hành theo tinh thần “phá chấp”, không còn chịu sự ràng buộc nghiêm ngặt vào giáo lý, kinh điển của Phật Tổ. Chỉ có những người học Thiền già dặn như Đào Tấn mới nhận ra điều đó và mới có đủ dũng khí để tu như vậy.
Nguyễn Phạm Hùng cho rằng, thơ Thiền được chia làm hai loại: thơ Thiền thiên về triết lý và thơ Thiền thiên về trữ tình. Ở Đào Tấn, dù mảng thơ Thiền không nhiều nhưng lại có đủ cả hai loại này, đôi khi, nó đan xen ngay trong một bài thơ. Tác giả vừa “trực tiếp phát biểu về những quan niệm triết học Phật giáo, triết luận về vũ trụ và nhân sinh bằng những phạm trù Phật học”, vừa gián tiếp qua những hình ảnh thiên nhiên hay cuộc sống sinh động“diễn tả những trạng thái tình cảm, cảm xúc, rung động về cuộc sống, về thiên nhiên mang màu sắc, âm hưởng, tâm thế Thiền” [6, 46].
Con người Thiền nhân tác giả trong thơ thể hiện chủ yếu ở sự giác ngộ, nhận thức được tư tưởng, triết lý nhà Phật. Trong thơ Thiền của mình, thi nhân dùng không ít những phạm trù, thuật ngữ, những hình ảnh, âm thanh của đời sống Phật giáo để nói lên tư tưởng, triết lý nhà Phật như: “Thiền cơ”, “vô”, “hữu”, “dục”, “an bài”, “phúc”, “không”, “độc tọa”, “vô ngôn”, “nhơn”, “tự tại”, “Di Lặc”, “chung”, “chung thanh”, “tự”, “tự môn”...vv. Tuy nhiên, Mai Tăng không chủ trương thuyết pháp, giảng đạo mà thiên về khuynh hướng chiêm nghiệm, suy ngẫm để tự giác ngộ về đạo. Ông nhận thức được cái nội lực phi thường của Di Lặc - “nhất tiếu không” mà một mình sắp đặt mọi việc:
Di Lặc nguyên lai bản đại hùng
Lãn tàn cao cứ Phạn vương cung
Cổ kim quân độc an bài đắc
Thương hải phù vân nhất tiếu không.
(Di Lặc vốn là một vị bồ tát rất dũng mãnh
Lười nhác ngồi chễm chệ nơi cung Phạn vương
Ông riêng xếp đặt việc xưa nay
Chuyện biển xanh và mây nổi thì chỉ một tiếng cười không).
Dạ du Di Lặc điện ngẫu hứng
Chính cái cười của Di Lặc trước “biển xanh và mây nổi” là dũng khí của kẻ tu hành, “vô úy” – không sợ trước mọi đổi thay, thăng trầm, “dĩ bất biến ứng vạn biến” như Vạn Hạnh từng nói với đệ tử “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy / Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. Còn sự “lười nhác” kia đâu phải là thói xấu, đó là cái tâm của kẻ tu hành không vướng bận, không can thiệp vào việc đời, phần nào giống với tinh thần “vô vi” của Đạo giáo. Trong bài “Tự phật”, ngay ở nhan đề, tác giả đã nhận thức được cái cốt lõi của quan niệm về Phật. Ai tu hành cũng mong muốn thành Phật. Nhưng Phật ở đâu? Phật không ở trong kinh kệ mà tụng niệm, cũng chẳng ở thế giới Tây phương cực lạc mà đi tìm, “Phật ở mình”, trong lòng mình, là chính mình. “Nghĩa là mỗi cái Tôi tự tìm đường đi của mình, tự trở thành Phật Tổ của mình” [3, 136]. Đúng như lời dặn của sư Quảng Nghiêm: “Nam nhi tự có chí xung thiên / Chớ bước theo vết Như Lai đã bước”. Nhận thức được điều đó đã là người đạt đạo. Thông qua hình thức đối đáp tự nhiên với bức tượng Di Lặc, tác giả đã trình bày kiến giải về cái thể và cái tướng của Phật tính:
Hòa Nam khấu thỉnh Di Lặc phật
Phúc như hứa đại tàng hà vật
Tiếu vân trung hữu nhất đoàn băng
Chỉ thị không không vô xứ ngật.
(Kính cẩn xin hỏi phật Di Lặc
Trong bụng chứa vật gì mà to thế?
Cười đáp: trong ấy có một khối băng
Chả ăn gì cả, chỉ là trống rỗng).
Tự phật
Cái thể trong suốt như băng và cái tướng to lớn bên trong “trống rỗng” chính là chân như, Phật tính, là cõi Niết Bàn. Đó là biểu tượng cho thế giới siêu hiện thực vô sinh vô diệt, vô thủy vô chung tồn tại trong tâm tưởng của người đã thành Phật. Tác giả còn thấy được cái chân như ở hình ảnh nước suối: “Nhấm ngụm nước suối trong thấu hiểu mùi đạo chân như” (Đề vách đá chùa Ông Núi), ở hình ảnh “ông Núi chẳng có gì cả” (Phỏng Linh Phong tự quy châu phong vũ đại tác). Không dừng lại ở đấy, Thiền nhân còn bàn đến chuyện nhân duyên, đến lòng từ bi, hay nỗi bi ai của phận người.Duyên hay nhân duyên là khái niệm chỉ mối quan hệ nhân quả nhằm giải thích cho khổ đế và tập đế của đạo Phật. Tác giả không chỉ trò chuyện về nhân duyên: “Nhất dạ thiền phòng thoại cựu nhơn” (Du Ngũ Hành sơn) mà còn tự làm thơ nói về nhân duyên: “Ngẫu tùy ngâm tuyết khấu đàn duyên” (Đề vách đá chùa Ông Núi). Đào tiên sinh nhận ra “Bụi đời luống phủ đầy áo” (Mai Tăng tiểu chiếu) cũng là nhận ra tấm thân khốn khổ, bụi bặm của những kiếp người sau bao năm tháng mưu sinh, vật lộn. Vì lo toan, tính toán mà rốt cuộc còn lại chỉ là mái đầu tóc bạc: “Lưỡng cá thanh xuân các bạch đầu” (Hai kẻ thanh xuân giờ đây đầu đều đã bạc - Hoa triêu dạ dữ nội hữu Diêu Tiên khanh Diệc Cổ tự), “Ưu thiên mấn dĩ ban” (Lo chuyện không đâu tóc cứ bạc dần – Cửu nhật). Đó không chỉ là nhận thức về sự thay đổi mà còn là nhận thức về nỗi khổ của con người, của chính mình. Và từ đáy lòng sâu thẳm trong con người tác giả đã toát lên tình thương, lòng từ bi, tinh thần cứu khổ cứu nạn theo tư tưởng Phật giáo. Tinh thần đó không chỉ biểu hiện ở mong muốn dùng 108 tiếng chuông tượng trưng cho sự giải thoát 108 sự phiền não trong thế gian (Một trăm lẻ tám tiếng chuông vang động tận đọt cây - Đề vách đá chùa Ông Núi) mà đôi khi, tác giả còn trực tiếp thốt lên: “Cửa động là nơi ân cần tiễn nhau / Đáng thương đều là những người xuống núi” – Du ngũ Hành sơn. Tác giả tự nhận mình là “kẻ sĩ từ bi thà là Phật thiệt” (Đề vách đá chùa Ông Núi) để có thể cứu độ chúng sinh thoát ra khỏi bể khổ, không còn ưu phiền. Và về cuối đời, ông còn nhận thấy cuộc đời làm quan của mình chỉ như giấc mộng, phần nào thấy được cái hư huyễn của cuộc đời, của thân xác như Vạn Hạnh đã nói: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô” (Thị đệ tử). Như vậy, đi từ nhận thức cho tới tự nhận thức, Đào Tấn đã đề cập đến nhiều phương diện, tư tưởng, triết lý Phật giáo trong thơ.
Tìm hiểu sâu mảng thơ Thiền cụ Đào, ta còn thấy những cảm xúc, rung động, những cảm nhận về thiên nhiên, cuộc sống đượm màu sắc thiền, lúc ẩn lúc hiện. Nhìn thấy hòn đá nhỏ xinh đẹp, ông đưa nó về làm bạn:
Ngẫu quá Vân quan đắc hảo thạch
Huề lai tiểu ốc bạn thư vi.
(Qua cửa ải Hải Vân tình cờ nhặt được viên đá đẹp
Đem về ngôi nhà nhỏ cho nó làm bạn với sách phòng văn).
Đắc thạch
Cử chỉ đó xuất phát từ cảm xúc nhân văn, từ cái nhìn bình đẳng vô biệt, yêu thương đến cả những sinh linh nhỏ bé, những vật vô tri vô giác của Thiền nhân. Những kẻ phàm phu tục tử sao có được cảm xúc, cử chỉ như vậy ? Thế giới thơ Thiền Đào Tấn còn phủ một cảm xúc miên man, mông lung, đứt nối của người, của cảnh rất khó nắm bắt. Đó là cảm giác man mác về thời gian trong một đêm mưa gió, khi “Hai kẻ thanh xuân giờ đây đầu đều đã bạc” (Hoa triêu dạ dữ nội hữu Diêu Tiên khanh Diệc Cổ tự). Là cõi hoài niệm của một khách giang hồ bao năm chưa có dịp về lại ngôi chùa cũ hay một ông quan ngất ngưỡng cưỡi bò vàng với cốt cách và không khí thực hư như Lão Đam cưỡi trâu trong truyền thuyết (Vãng đăng Hồng sơn phỏng Thiên Tượng phế tự xuất sơn hữu tác):
Hoàng độc thi nhân kim bất tại
Dữ quân thùy phục đính tao phùng.
(Nhà thơ cưỡi bò vàng nay không còn nữa
Hỏi ai là kẻ trở lại để cùng người hẹn cuộc tao phùng).
Lòng Thiền đã khiến những bức tranh thiên nhiên trong thơ ông cũng mang đậm màu sắc Thiền. Thơ Thiền thường có những bức tranh thiên nhiên mơ hồ, huyền ảo. Trúc Lâm Đầu Đà – Trần Nhân Tông, người sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã từng vẽ nên một bức tranh huyền diệu về cảnh thiên nhiên và cuộc sống con người: “Trước xóm, sau thôn, mờ mờ như khói phủ / Bên bóng chiều, cảnh nửa như có nửa như không” (Thiên Trường vãn vọng). Đào Tấn cũng hay lựa chọn chất liệu “khói”, “mây”, “ráng chiều” để làm cho bức tranh nhạt nhòa, mờ ảo như đi vào cõi hư vô của Thiền: “Lạp trượng vân yên đệ kỷ trùng” (Chống gậy vượt lên mấy tầng mây khói - Vãng đăng Hồng sơn phỏng Thiên Tượng phế tự xuất sơn hữu tác), “Nhất kính (kỉnh) yên hà tự tại thiên” (Vùng trời thỏa thích một khối khói mây ráng chiều - Đề vách đá chùa Ông Núi). Ở đấy, ta bắt gặp Đào Tấn như một tiên ông đang du ngoạn cảnh tiên trên thiên đường mịt mù mây khói. Con người như vô ý, quên đi thực tại hiện hữu để hợp nhất với thiên nhiên vào cõi vô cùng vô tận. Một tiếng chuông ngân mang mang trong đêm trăng mờ cũng là một không gian huyền diệu phảng phất màu sắc Thiền mà Đào công nắm bắt được:
Khiêm Lăng tây lộ nguyệt hoàng hôn
Tùy trứ chung thanh khấu tự môn.
(Đường phía tây Khiêm Lăng ánh trăng nhòa nhạt
Lần theo tiếng chuông ngân đến gõ cửa chùa).
Dạ quá Hòa Quang tự ngẫu chiếm
Cảnh bàng bạc, mông lung giữa khoảng không tỉnh lặng ấy như chịu ảnh hưởng từ bài Phong kiều dạ bạc của Trương Kế: “Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự / Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”. Tác giả còn phân thân làm một Thiền sư “hô phong hoán vũ” để kiềm tỏa đường về của chính mình. Cảnh mưa gió mịt mù phủ kín lối về của con thuyền trên sông nước vừa như thực vừa như ảo quả là một bức tranh tuyệt diệu:
Khả ái Sơn Ông vô sở hữu
Chỉ tương phong vũ tống quy châu.
(Đáng yêu thay Ông Núi chẳng có gì cả
Chỉ đem gió mưa mà tiễn thuyền sư trở về).
Phỏng Linh Phong tự quy châu phong vũ đại tác
Trong đạo Phật, người ta nói nhiều đến Thiền hay Thiền định. Nó nguyên là phép tu hành của đạo Thiền (Djainisme) mà Phật Thích-ca đã kế thừa. Phép tu Thiền này ảnh hưởng trong thơ Thiền khá rõ. Những bức tranh dù là thiên nhiên hay cuộc sống con người mà thơ Thiền hướng tới thường là những bức tranh tĩnh lặng. Chỉ có ở đó, Thiền nhân mới có được cái tĩnh tâm, cái khoảng lặng từ đáy lòng mà suy nghĩ và tìm ra con đường giải thoát khỏi cảnh khổ trần ai. Trong thơ Thiền Đào Tấn có những bài chỉ mình tác giả đối diện với cảnh trên núi cao như núi Hồng, núi Ông. Cảnh nơi ấy không chỉ đẹp mà còn vắng lặng, thanh tịnh đến bất ngờ. Còn gì vắng lặng hơn khi một mình lên ngôi chùa hoang trên đỉnh núi Hồng với “Cội hàn tùng lẻ loi tựa lưng ngôi chùa đổ / Khối đá im lìm nằm giữ lấy chuông hư” (Vãng đăng Hồng sơn phỏng Thiên Tượng phế tự xuất sơn hữu tác), hoặc một mình đứng nơi vách đá núi Ông mà đối diện với suối trong, mây trời (Đề vách đá chùa Ông Núi) chẳng khác gì cảnh vắng lạnh trên núi Yên Tử “Cao sát trời xanh am Thiền mát lạnh / Cửa mở trên tận tầng mây” (Huyền Quang - Yên Tử sơn am cư ). Ở bức tranh vắng lặng ấy, hình ảnh ngôi chùa, cây tùng, phiến đá như những sinh thể sống hiện lên thật hồn nhiên, sinh động. Phật giáo phủ định tư duy lý tính, suy luận mà đề cao trực giác, trực cảm. Vì thế, cảnh vật hiện lên trong mắt Thiền nhân thường “bất ngờ nắm bắt được trong cuộc sống với dáng vẻ tự nhiên, trong trẻo nhất” [6, 35].Hình ảnh “Bích vân hương thảo mãn Tàng Chân” (Cỏ thơm mây biếc phủ đầy động Tàng Chân – Du Ngũ Hành sơn) cũng là một trong nhiều bức tranh thiên nhiên mang dáng vẻ như thế. Nó mang đậm mùi đạo Thiền như trong thơ Lê Thánh Tông :
“Điểu ngữ hoán nghênh tùng hạ khách
Hoa dung tĩnh đối động trung tiên”.
(Chim hót chào đón khách dưới rặng tùng
Hoa nở lặng yên trước tiên trong động).
(Đề Sài Sơn tự)
Ở Đào Tấn, dù ẩn tu hay xuống núi làm quan, tác giả đều có sự thống nhất ở một tấm lòng, một tâm hồn luôn hướng đến Phật, luôn quan tâm đến các chùa chiền, nhà sư; lấy sự thăm viếng, trò chuyện chốn Thiền môn làm niềm vui để quên đi mọi phiền não, tuế toái của cuộc đời. Chỉ có hơn chục bài thơ Thiền mà tác giả nhắc đến rất nhiều tên chùa, điện, động – nơi tác giả trực tiếp đặt chân tới thăm viếng: chùa Linh Phong (chùa Ông Núi), chùa Hòa Quang, chùa Diệc Cổ, chùa Thiên Tượng, điện Di Lặc, động Tàng Chân…vv. Có lúc, tác giả một mình đi du ngoạn cảnh chùa, đôi khi lại cùng vợ là Diêu Tiên đến thăm lại chùa cũ như một chứng tích về tuổi thanh xuân của mình:
Nẫm tứ niên tiền thử dạ du
Hải Đường hoa hạ thuyết phong lưu.
(Hai mươi bốn năm trước cũng đêm nay chúng ta cùng dạo chơi
Dưới khóm hoa Hải Đường cùng bàn chuyện phong lưu).
Hoa triêu dạ dữ nội hữu Diêu Tiên khanh Diệc Cổ tự
Mỗi khi nhàn hay buồn phiền vì chuyện quan trường, tác giả lại mượn cớ đến thăm các sư để được trò chuyện :
Độc tọa hàn nha vô nhất sự
Tiếu tương sơn mính tặng sơn tăng.
(Một mình ngồi ở cửa quan khốn khổ không việc gì làm
Bèn đem trà núi tặng cho nhà sư ở núi, buồn cười thật!)
Tặng tăng
Đặc biệt, suốt cuộc đời của mình, ngoài nỗi hoài hương, ông còn nhớ đến Linh Phong Tự như một nỗi niềm khắc khoải, mong đợi:
Ưu thiên mấn dĩ ban
Linh Phong hồi thủ xứ.
(Lo chuyện không đâu tóc cứ bạc dần
Chùa Linh Phong là nơi ngoảnh đầu lại).
Cửu nhật
“Trong hệ thống thế giới quan tôn giáo, con người được coi như một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp giữa tinh thần và thể xác; trong đó, thể xác là cái nhất thời, tinh thần mới là vĩnh viễn” [4, 118]. Chính vì thế, mỗi khi thể xác đau đớn thì tâm hồn thường thoát xác để phiêu du đến một bến bờ đối lập, tìm kiếm sự an ủi hay lãng quên thực tại. Nhu cầu tất yếu ấy, chúng ta đã bắt gặp trong thơ thiền Đào Tấn.
Tóm lại, đạo Phật do có nhiều điểm tương đồng với tâm thức, truyền thống của người Việt nên đã sớm được nhân dân ta đón nhận. Dù có lúc thăng trầm, song một dòng chảy sáng tác mang âm hưởng Thiền vẫn chưa hề đứt đoạn trong văn học Việt Nam. Xuất phát từ truyền thống gia đình theo Phật, sống trong hoàn cảnh lịch sử đầy phức tạp và biến động, bản thân lại quá mệt mỏi vì cuộc đời làm quan nay đây mai đó mà khát vọng cứu nước vẫn không thành, Đào Tấn đã tìm đến Phật, hướng đến Phật như một nỗi niềm khắc khoải trong suốt cuộc đời mình. Đối với Đào công, dù không xuống tóc đi tu nhưng qua thơ, ta thấy được từ đời sống đến nhận thức tác giả đều chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền tông. Chính chất Thiền trong con người tác giả đã góp phần làm cho một trọng quan triều đình mà lại rất gần gũi với nhân dân, sống nhân ái chan hòa, thấu hiểu được thế thái nhân tình trong xã hội ba đào đầy biến động. Thơ Thiền của tác giả tuy không nhiều nhưng đã góp phần hoàn chỉnh bức chân dung về đời sống tinh thần phong phú và phức tạp của ông quan, nhà thơ Đào Tấn. Qua đó giúp ta hiểu hơn và càng thêm trân trọng cuộc đời cũng như sáng tác của tác giả này.
TÓM TẮT
Dù ở nhận thức triết lí hay cảm xúc rung động Thiền qua bức tranh thiên nhiên, đời sống…, thơ Đào Tấn vẫn đậm chất Thiền. Tuy không hé lộ nhiều khả năng tham Thiền, không tự nhận mình đạt đạo, nhưng Đào Tấn đã là người đạt đạo thực sự trong sáng tác của mình, xứng đáng là một Thiền nhân, “bao phen ưu du dưới rặng thông, thanh nhàn như một Địa Tiên” [1, 134]. Thơ Thiền là một trong những mảng thơ đặc sắc của Đào Tấn góp phần hoàn thiện bức chân dung tinh thần con người tác giả. Cũng chính mảng thơ này, Đào Tấn đã góp phần tiếp nối cho dòng thơ Thiền Việt Nam tuôn chảy, cho bộ mặt văn học dân tộc mang nhiều dáng vẻ hơn.
Summary
THE PERSON OF ZEN IN DAO TAN’S POEMS
Nguyen Đinh Thu
Whether being philosophically conscious or being overwhelmed with emotions, Dao Tan’s poems, portrayed in terms of nature and life pictures, are filled with spirit of Zen. Despite a faint possibility of entering into the world of Zen and unacknowledging himself as being a truly bonze, Dao Tan is, in fact, a bonze in his works, thus being deserved to be called a person of Zen. Zen poetry is one of his most distinctive themes, constituting and integral part of his spiritual portrayal. It is this theme that helps proceed our Vietnamese Zen poems, making a huge contribution to our diversified national literature.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đ. Q. Địch, Mai viên cố sự, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội, (2005).
[2] Nhiều tác giả, Đào Tấn nhà thơ nghệ sĩ tuồng xuất sắc, Ty văn hoá và thông tin nghĩa Bình, (1978).
[3] Nhiều tác giả, Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, (1997).
[4] Nhiều tác giả, Triết học Mác – Lênin đề cương bài giảng dùng trong các trường đại học, cao đẳng từ năm học 1991 – 1992 (Tái bản lần 7), Tập 2, NXB Giáo dục, (2001).
[5] Nhiều tác giả, Đào Tấn trăm năm nhìn lại, NXB Hội Nhà văn, (2008).
[6] N. P. Hùng, Thơ Thiền Việt Nam những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật (Chuyên luận), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, (1995 ).
[7] V. N. Liễn (Chủ biên), Thư mục – Tư liệu về Đào Tấn, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nghĩa Bình – Sở văn hoá và thông tin Nghĩa Bình – Nhà hát tuồng Nghĩa Bình, (1985).
[8] V. N. Liễn (Biên khảo), Đào Tấn thơ và từ, NXB Sân khấu, Hà Nội, (2003).
[9] T. N. Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam (Tái bản lần thứ 2), NXB Giáo dục, Tp.HCM, (1999).
Nguồn: Nguyễn Đình Thu (2012), “Con người thiền nhân trong thơ Đào Tấn”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Quy Nhơn, Số 3 (Tập VI), tr. 89 - 96.
Bài đã đăng
trên Tạp chí Văn hóa Phật Giáo
trên Tạp chí Văn hóa Phật Giáo
số 189, ra ngày 15/11/2015
Dẫn lại theo : Blog của Thầy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét